Nghiên cứu Tứ Linh: Lân, Long, Qui, Phụng trong Mỹ Thuật Việt Nam (Phần 4)
Đây là Phần cuối cùng trong Những bài nghiên cứu về Tứ Linh ở Việt Nam. Qua 3 phần đầu, chúng ta đã biết một cách tổng quát về ba Linh vật : Long, Lân, và Quy. Bài cuối cùng này sẽ giới thiệu về Linh vật cuối cùng:
CHIM PHỤNG HOÀNG
Người Việt Nam chúng ta cũng như người Trung Hoa, Nhật Bản và
Triều Tiên tin rằng Phụng Hoàng là linh điểu, khi xuất hiện sẽ mang lại điềm
lành, báo hiệu thời thái bình thịnh trị và có thánh nhân xuất hiện.
Truyền thuyết kể rằng Phụng Hoàng là vua của các loài chim, Phụng Hoàng chỉ ăn quả trúc, uống
nước suối trong và đậu trên cây ngô đồng. Khi bay có hàng trăm loài chim bay
theo chầu hầu. Hình dáng chim Phụng rất đẹp, mỏ như mỏ gà mái, cổ như cổ rắn,
đầu chim én, lưng rùa. Cánh xòe ra rất rộng, lông màu ngũ sắc và cứng như chất
kim, đuôi tựa như những ngọn lửa và trông cũng giống như đuôi cá. Phụng hoàng có mười hai
lông đuôi tượng trưng cho mười hai tháng, năm nhuận thì có thêm một lông ngắn tượng trưng
cho tháng mười ba. Thân mình cao sáu thước, chứa đựng ý nghĩa của sáu hình ảnh:
đầu tượng trưng cho trời, mắt là mặt trời, lưng là mặt trăng, cánh là gió, chân
là đất, đuôi là tượng trưng của những vì sao.
Tiếng hót chim Phụng dịu dàng bay bổng, có đủ ngũ âm: cung,
thương, giốc, chủy, vũ, khi hót lên thì hết thảy các giống chim khác đều bay
lại nhịp nhàng hòa điệu.
Phụng Hoàng cất cánh bay từ phương Đông, bay thẳng đến núi Côn
Lôn, uống nước tinh khiết ở suối Để Trụ, tắm cánh ở biển Nhược Thủy (biển có tên Nhược Thủy vì nước ở đây
rất nhẹ đến đổi lông chim thả vào cũng không thể nổi lên được), và rồi sau cùng
bay đến đậu trên ngọn núi cao Đơn Tuyệt.
Chuyện truyền kỳ còn chép việc Tiêu Sử đời nhà Châu, khi thổi
ống tiêu bằng ngọc do Thượng đế ban cho, tiếng kêu như chim Phụng gáy nên thối
chốc lát thì bốn phía mây ngũ sắc bồng bềnh, chim bạch hạc bay đến múa lượn, và
biết bao nhiêu giống chim khác bao quanh, con bay, con đậu, kêu hót líu lo vô
cùng ngoạn mục. Tiêu Sử dạy cho vợ là công chúa Lộng Ngọc, con vua Tần Mục Công
thổi tiêu, chỉ trong nửa năm, Lộng Ngọc thổi khúcPhượng cầu Hoàng (chim
Phụng trống tìm chim Phụng mái) rất tuyệt diệu. Một đêm kia, hai vợ chồng đang
hòa tiêu, có chim Phụng bay xuống, nàng cỡi tử Phụng, chồng cỡi xích long, hai
ngươi bay thẳng về tiên giới.
Năm xưa, Đô Thành Hiếu Cổ Tập San (Builletin
des Amis du Vieux Huế) có công bố tài liệu của một nhà điểu cầm học người Nhật Bản là ông U.
Hachisuka cho rằng chim Phụng thường được mô tả trong mỹ thuật Trung Hoa là lấy kiểu mẫu từ con chim trĩ xứ Đông Dương (faisan
ocellé d’Indochine). Ông Jabouille, một nhà nghiên cứu người Pháp xác định thêm
đấy là con chim trĩ sống ở triền núi phía Đông dãy Trường Sơn, một giống chim
cực kỳ quý hiếm đối với toàn thế giới. Khảo cứu trên bình diện vạn vật học cũng
là một điều hết sức thú vị và hấp dẫn, tuy thế không phải là đối tượng của bài
viết này. Ở đây, chúng ta chỉ lưu tâm đến Phụng Hoàng trong văn hóa mỹ
thuật, và có lẽ vì thế chúng ta chẳng thể nào quên được con chim Phụng kỳ vĩ,
cao khiết, vô cùng lộng lẫy, bay liệng giữa đêm tối bí ẩn, trên trời Đâu Suất
của nền thi ca Việt Nam hiện đại.
Nhớ khi xưa, ta là chim Phượng Hoàng
Vỗ cánh bay chín tầng trời cao ngất,
Bay tù Đao Lỵ, đến trời Đâu Suất,
Và lùa theo không biết mấy là hương.
Lúc đằng vân, gặp ánh sáng chận đường
Chạm tiếng nhạc, va nhằm thơ thiên cổ,
Ta lôi đình, thấy trăng sao liền mổ,
Sao tan tành rơi xuống một cù lao
Hóa đài điện đã rất nên tráng lệ,
Ở ngôi cao ngước mắt ra ngoài bể,
Phong lưu ghê, sang trọng nỏ vừa chi!
Vài thành ngữ điển tích liên hệ đến Phụng Hoàng:
Phụng mao lân giác: lông chim Phụng và sừng kỳ lân, nghĩa là vật hiếm có, chỉ
người tài giỏi, xuất chúng hoặc con cháu hiền tài của những danh gia vọng tộc.
Tiên sa Phụng lộn: đẹp đẽ, xinh tốt như tiên như Phụng (Huỳnh Tịnh Của, Đại Nam Quấc âm tự vị).
Phụng gáy Kỳ sơn: chim Phụng gáy ở núi Kỳ Sơn. Khi vua Văn Vương ra đời, chim
Phụng gáy vang ở núi Kỳ Sơn, ý nói điềm lành, có thánh nhân, hiền giả hay bậc
anh tuấn xuất hiện.
Phụng liễn:
kiệu hoặc xe có hình chim Phụng của nhà vua và hoàng gia. Cũng còn có nghĩa là
xe của tiên đi. Sách Nho chép: Tây Vương mẫu đi trên cỗ chim Phụng đến yến tiệc
với Mục Vương. Nghĩa thông thường: cỗ xe đẹp, rực rỡ (Bửu Kế, Tầm nguyên tự điển).
Phụng thành:
thành có chim Phụng đậu, chỉ kinh đô, nơi vua ở,. cũng do điển công chúa Lộng
Ngọc ngồi trên thành thổi ống tiêu, Phụng liền bay đến nên đặt tên là Phụng hoàng thành.
Phụng kỳ: cờ thêu hình chim
Phụng, cờ của vua.
Thường gọi chung là Phụng Hoàng nhưng thực ra thì Phụng là con
chim trống và Hoàng là con chim mái. Loại chim này có đặc tính lúc nào cũng ở
gần bên nhau, thường dùng để ví tình vợ chồng khắng khít nên có câu: Phụng hoàng vu phi, hòa mình tương tương (đôi Phụng
cùng bay, cùng cất tiếng kêu hòa họp).
Loan là một giống chim cùng loài với
Phụng, hai giống chim này thường chắp cánh bay đi cùng nhau, do vậy chữ Phụng Loan thường để ví cuộc hôn nhân hay tình vợ
chồng. Loan Phụng hòa minh (Loan Phụng cùng hót lên êm
đềm), người ta thường dùng điển này để chúc vợ chồng mới cưới hạnh phúc tươi
đẹp, bền vững lâu dài.
Người Việt xem chim Phụng là linh vật, nhưng cùng lúc đã kéo con
vật kỳ bí này đến gần với cuộc nhân sinh. Đặc biệt nhất, chim Phụng tượng trung
cho Hoàng Hậu, bậc mẫu nghi thiên hạ. Vậy nên trên những đồ dùng của nhà vua
như áo mũ thường trang trí hình rồng, và trên áo mũ Hoàng Hậu thì trang trí
hình Phụng. Nhưng thường thì nó gợi lên hình ảnh người phụ nữ và sự hòa hợp
trai gái, như nơi đồ hình hai con Rồng, Phụng đang châu mình đùa giỡn chữ Song Hỷ ở giữa. Hình tượng này rất phố cập trong
sinh hoạt của nhân dân ta khắp nơi, nhất là trong những đám cưới xin, ăn hỏi,
bỏ trầu.
Khi thấy các đồ vật gia dụng như giường, tủ, bàn, ghế, giá
gương, tráp, hộp, quạt giấy, khăn bàn, đèn lồng, chậu nước với hình con Phụng
được sử dụng trang trí chủ yếu trên ấy, chúng ta dễ dàng biết được ngay đấy là
đồ dùng dành riêng cho phụ nữ.
Tô điểm cho các công trình kiến trúc lớn thuộc nền nghệ thuật
truyền thống, chim Phụng được đắp tạc, vẽ vời chạm trổ trên mái nhà các cung
điện, triều miếu, phủ đệ, đền chùa, đặc biệt nơi các đền thờ thần nữ, nơi nhà ở
và lăng mộ các hoàng hậu, công chúa, dễ gặp nhất là trên các bình phong, đứng
một mình hay hiện ra trong bộ tứ linh Long, Lân, Qui, Phụng.
Trong công trình ghi chép đặc sắc về mỹ thuật Huế, L. Cadière
nhận xét rằng nơi các ngôi chùa ở miền Bắc thường có hình bốn con Phụng quấn
quanh các trụ cột phía trước rất đẹp nhưng ở Huế thì không thấy có dạng này.
Chim Phụng đứng một mình trên lóp sóng lô xô, đôi lúc là hai con
đang uốn lượn và quay đầu châu vào một vùng dương ở giữa, chung quanh là những
vầng mây la đà, bên dưới là những lớp sóng nước tầng tầng. Chúng ta nên lưu ý ở
đây là hết thày bốn con vật trong tứ linh dường như đều có duyên nợ với nước,
con nào cũng nhiều phen hiện ra trên sóng nước, quẫy đạp hoặc phun những tia
nước vô cùng ngoạn mục.
Trên quần thể kiến trúc cung đình Huế, con Phụng xuất hiện khắp
nơi nhưng bao giờ cũng phụ thuộc vào con Rồng mới là chủ yếu. Dưới chế độ phong
kiến, các bậc đế vương thường cho chạm khắc hình chim Phụng với ý nghĩa triều
đại họ ngự trị là thời thái bình an lạc, như các thời hoàng kim thịnh trị trước
đây, chim Phụng đã bay về chầu hầu.
Phụng Hoàng thường ngậm trong miệng một dải lụa bay phất phới,
quấn lấy một cái hộp vuông, có thể đấy là cái tráp thư, hay hai cuộn tròn có
dạng như hai cuốn sách xếp lại, đôi khi người nghệ sĩ lúc vẽ vời lại dặm thêm
vào đấy một quản bút. Dạng này thường được gọi là Phụng hàm thư. Cũng có người cắt nghĩa rằng đấy chính
là chim Phụng đang ngậm dải lụa quấn quanh bộ cổ đồ của vua
Phục Hy.
Ngoài hình dáng thân thuộc con Phụng thần thoại ấy, chúng ta còn
có những biến dạng khác, từ một gốc cây kiểng hay một cành hoa, như cành đào,
cây cúc, nhánh mai, cành mẫu đơn, nhánh hoa loa kèn đỏ (amaryllis) biến hóa mà thành Phụng. Nhà sưu tập
cổ ngoạn Vương Hồng Sển đã cho chúng ta xem hình một nhánh cây biến thể thành
Phụng vẽ trên lòng một đĩa sứ men lam xứ Huế đề hiệu Trân ngoạn (thế kỷ XIX), có đủ đầu, cánh, đuôi,
mắt, mỏ, mồng, và chú thích thêm: khách Tây phương không hiểu nghệ sĩ trổ hình
gì, ký kỳ quái quái, ngươi Á Đông quen với thuyết Lão Trang hư không huyền ảo
lại thích thú và lấy lâm tự nhiên khi thấy từ giới thảo mộc có thể trở thành
sanh cầm điểu thú dễ dàng.
Suốt gần mười thế kỷ qua, hình tượng con Phụng đã gắn bó thân
thiết với nền nghệ thuật tạo hình của dân tộc, đã tự biến chuyển để hoàn chỉnh
dần với thời gian và lịch sử. Từ dạng vẻ có phần nặng nề dưới thời Lý-Trần như
hình chim Phụng ở chùa Thái Lạc, Hải Hưng thế kỷ XIV, chắc hẳn có mang nhiều
dấu vết của chim Kinnari, là nhạc công đầu người mình chim trên cõi trời của
đất nước Champa cổ, đến thời Lê Mạc những con chim Phụng đã thanh hóa hơn
nhiều, như những hình ảnh Phụng khá đẹp ở chùa Bút Tháp (Hà Bắc, thế kỷ XVII) hay ở đình Đình Bảng và trên
những trán bia tiến sĩ khắc đá ở văn miếu Hà Nội, đến thời Nguyễn, phải nói là
vẻ đẹp thanh nhã, mỹ lệ của chim Phụng Hoàng đã là một chỉnh thế tuyệt đẹp, góp
rất nhiều phần cho nền nghệ thuật trang trí chung của toàn bộ đất nước.
Bài viết nghiên cứu về Tứ Linh ở Việt Nam (4 phần) đến đây là hết. Hi vọng sẽ củng cố thêm kiến thức về mỹ thuật truyền thống trong lòng Quý vị và các bạn.
Cảm ơn Quý vị và các bạn đã dành thời gian theo dõi và tìm hiểu.
Ngôi nhà Mỹ thuật,
Biên soạn từ các nguồn
Wikipedia & nghethuatxua
Có thể bạn muốn đọc lại để tìm hiểu kỹ hơn :
Nghiên cứu về Tứ Linh ở Việt Nam (P1) - RồngNghiên cứu về Tứ Linh ở Việt Nam (P2) - Kỳ Lân
Nghiên cứu về Tứ Linh ở Việt Nam (P3) - Rùa
Like và Share nếu bạn cảm thấy bài viết này là có ích cho mọi người nhé !